Trang chủ » Thông tin y học » VẮC-XIN VÀ TIÊM CHỦNG: NHỮNG THÔNG TIN CƠ BẢN

VẮC-XIN VÀ TIÊM CHỦNG: NHỮNG THÔNG TIN CƠ BẢN

       I. LỜI MỞ

     Tổ chức Y tế Thế giới nhận định, thế kỷ XX mệnh danh là thế kỷ chống nhiễm trùng với hai phát kiến nổi bật là kháng sinh và  vắc xin phòng bệnh. Từ đây, đưa ra một nguyên lý y học bất di dịch: Trị nhiễm trùng dùng kháng sinh, phòng nhiễm trùng tiêm phòng vắc xin”.  

              Uống vắc xin bại liệt để khỏi tàn phế

     Dưới đây là những thông tin cơ bản về vắc xin và tiêm chủng

          II LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VACCINE

   Edward Jenner (1749-1822), bác sĩ miền quê nước Anh, thấy rằng những người vắt sữa bò không bao giờ mắc bệnh đậu mùa (smallpox). Ông nghĩ rằng có lẽ do mắc bệnh bệnh đậu bò (cowpox), dạng bệnh như đậu mùa nhưng nhẹ, ít nguy hiểm hơn, đã giúp cho họ có khả năng bảo vệ cơ thể khỏi mắc bệnh đậu mùa. Jenner lấy một số mủ từ tay của một cô gái vắt sữa bị mắc đậu bò đưa vào da chú con trai mình là James Phipps, số lượng mủ dược tăng dần dần. Sau đó ông cố tình lây đậu mùa cho Phipps. Bệnh có phát nhưng lành rất nhanh và chẳng để lại sẹo di chứng nào.

     Vậy là, năm 1796, sau nghiên cứu lâu đến 20 năm Edward Jenner  là người đầu tiên tìm ra thuốc chủng ngừa đậu mùa. Thời đó, bệnh đậu mùa là căn bệnh quá khủng khiếp về mức độ lây lan và các biến chứng để lại vĩnh viễn trên da như rỗ mặt, sẹo da….Việc tìm ra thuốc chủng bệnh đậu mùa đã giúp Jenner được giải thưởng quốc gia đến 500.000 quan, quá lớn vào thời đó.

    Vì bệnh đậu bò và “thuốc” chủng ngừa đậu mùa đều có liên quan đến con bò cái, vacca theo tiếng La tinh, nên từ vắc xin (vaccin, thuốc chủng) ra đời từ đây.

          III. VACCINE HOẠT ĐỘNG THẾ NÀO ?

      Khi một vi sinh vật lạ, kháng nguyên (antigen), xâm nhập vào cơ thể, hệ thống miễn dịch sẽ được “báo động” và “lưu giữ” những thông tin này. Các tế bào bạch cầu lympho B sẽ được kích hoạt để sản sinh ra các kháng thể (antibody) đặc hiệu để chống lại đúng các vi sinh vật lạ đã xâm nhập. Lượng kháng thể được sinh tổng hợp càng nhiều khi vật lạ vào cơ thể càng lặp lại nhiều lần.

 

                             Cơ chế hoạt động của vắc xin 

    DT 395 VẮC XIN 2               

      Vắc xin thường là xác chết, các protein hay những biến thể suy yếu, giảm độc lực của các vi sinh vật gây bệnh đóng vai các kháng nguyên. Khi các vắc xin được đưa vào cơ thể dưới dạng thức tiêm chủng, chúng sẽ kích thích hệ miễn dịch giống hệt các vi sinh vật thật sự xâm nhập và các kháng thể được tạo thành. Có thể nôm na rằng, tiêm chủng vắc xin là cách “tập trận” cho cơ thể nhận biết mầm bệnh để chống lại thông qua việc sản xuất các kháng thể đặc hiệu tương ứng. Để lượng kháng thể càng nhiều chúng ta cần tiêm nhắc vắc xin nhiều lần.

     Kháng thể có tính đặc hiệu rất cao, ví như vắc xin bại liệt không phòng được bệnh dại, vắc xin viêm gan không phòng được ho gà…

    Sau vắc xin đậu mùa do bác sĩ Edward Jenner phát hiện, nhiều vắc xin phòng bệnh khác lần lượt ra đời đáng kể như: thuốc chủng ngừa bệnh dại và bệnh than của Louis Pasteur, thuốc chủng ngừa bệnh dịch hạch của Alexandre Yersin, thuốc chủng ngừa lao B.C.G do Calmette và Guerin….

    Hiện nay, có rất nhiều vắc xin phòng bệnh được bào chế theo cùng nguyên lý gây miễn dịch “tập trận” cho con người như suy nghĩ của Jenner cách đây hơn 200 năm !!!  

    Đặc biệt, với các bệnh lây nhiễm do virus, vốn không có thuốc điều trị đặc hiệu, như bệnh dại, bại liệt, cúm, sởi, viêm gan siêu vi B…thì vắc xin là liệu pháp hiệu quả chắc chắn nhất…

    IV.  PHÂN LOẠI VACCINE

    Tùy theo kháng nguyên (immunogen), chất liệu kích thích miễn dịch, vaccine được phân ra 6 loại sau:

     1. VACCINE BẤT HOẠT (inactivated vaccine)

     Nuôi cấy mầm bệnh, bất hoạt (giết chết) bằng nhiệt và/hoặc hóa chất làm kháng nguyên.

           

    Vì không có mầm bệnh sống, do đó không thể nhân lên và gây bệnh được trong bất kỳ trường hợp nào, kể cả trên người suy giảm miễn dịch.

    Vaccine bất hoạt toàn thể cần chủng liều lặp lại để tạo đủ đáp ứng miễn dịch cần thiết, và đa số vaccine bất hoạt toàn thể chỉ gây được miễn dịch dịch thể mà không gây được miễn dịch tế bào.

   Các vaccine bất hoạt toàn thể hiện có là ho gà, thương hàn, tả, dịch hạch, bại liệt (Salt), bệnh dại, cúm, viêm gan A.

      2. VACCINE TIỂU ĐƠN VỊ (subunit vaccine)

    Vaccine tiểu đơn vị cũng không chứa tác nhân gây bệnh còn sống như vaccine bất hoạt toàn thể. Điểm khác biệt ở đây là chỉ lấy tiểu phần kháng nguyên cần thiết từ tác nhân gây bệnh để tạo đáp ứng miễn dịch. Tiểu phần có thể là protein (protein-based subunit vaccine), polysaccharide (polysaccharide vaccine), hay đơn vị liên hợp (conjugate subunit vaccine).

                  

       Vì không chứa tác nhân gây bệnh còn sống nên vaccine tiểu đơn vị hoàn toàn an toàn khi sử dụng trên người, kể cả các trường hợp suy giảm miễn dịch.

     Các vaccine tiểu đơn vị hiện có gồm vaccine  ho gà, phế cầu, màng não cầu, Hib, viêm gan B, HPV, zona.

     3. VACCINE BIẾN ĐỘC TỐ (toxoid vaccine)

    Là một dạng vaccine tiểu đơn vị, được sản xuất dựa trên độc tố mà vi khuẩn sản sinh ra, như độc tố của vi khuẩn uốn ván hay bạch hầu.

    Vaccine giải độc tố được sử dụng phòng các bệnh gián tiếp gây ra qua độc tố của vi khuẩn như bệnh uốn ván, bạch hầu.

    Độc tố bản chất là protein được xử lý thành không còn độc, vô hại, sử dụng làm kháng nguyên trong các vaccine này.

    Hai vaccine biến độc tố hiện dùng là giải độc tố bạch hầu và giải độc tố uốn ván.

    4. VACCINE GIẢM ĐỘC LỰC (attenuated vaccine)

   Các mầm gây bệnh như virus, vi khuẩn được làm suy yếu, giảm độc lực bằng nhiều cách khác nhau, phổ biến nhất là nuôi cấy lặp đi lặp lại rất nhiều lần (có thể lên tới 200 lần), khiến các mầm bệnh này chỉ nhân lên trong môi trường nuôi cấy và yếu, giảm khả năng nhân lên trong cơ thể con người, do đó an toàn để sử dụng.

                    

      Vì vaccine sống giảm độc lực còn khả năng nhân lên trong cơ thể người được tiêm chủng, việc sử dụng loại vaccine này thực chất là đưa một liều rất nhỏ mầm bệnh đã giảm hoặc mất độc lực vào trong cơ thể, để chúng nhân lên và khởi động đáp ứng miễn dịch. Miễn dịch đạt được từ vaccine sống giảm độc lực gần hoàn toàn giống với khi mắc bệnh tự nhiên, nên đây là loại vaccine tạo đáp ứng miễn dịch hiệu quả nhất.

    Các tác nhân ánh sáng, nhiệt độ, hóa chất…ảnh hưởng lên quá trình nhân lên bên trong cơ thể đều khiến vaccine giảm hoặc mất hiệu quả. Do đó, việc lưu trữ, vận chuyển phải rất nghiêm ngặt, có trang thiết bị chuyên dụng phù hợp. Một số vaccine  sống giảm độc lực được sản xuất và đưa ra thị trường dưới dạng bột đông khô, trước khi sử dụng cần phải hòa tan với dung dịch được chỉ định theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Đồng thời nhiều vaccine  sống giảm độc lực yêu cầu phải bảo quản lạnh để đảm bảo chất lượng.

    Các vaccine sống giảm độc lực hiện có gồm vaccine  sởi, quai bị, rubella, bại liệt (Sabin uống), đậu mùa, thủy đậu, BCG, thương hàn (uống), sốt vàng, rota virus, và cúm.

      5. VACCINE VECTOR VIRUS (viral vector-based vaccines)

   Khác với hầu hết các loại vaccine thông thường, vaccine vector virus sử dụng chính tế bào cơ thể con người để sản xuất kháng nguyên.

    Các hãng dược phẩm sử dụng một loại virus đã được sửa đổi (vector) cung cấp mã di truyền của kháng nguyên vào tế bào người, chỉ đạo tế bào sản sinh một lượng lớn kháng nguyên, các kháng nguyên này trở lại kích hoạt hệ thống miễn dịch, kích hoạt cả tế bào T (ký ức miễn dịch) cũng như tế bào B (sản xuất kháng thể), bắt chước những gì xảy ra trong quá trình lây nhiễm tự nhiên với một số mầm virus gây bệnh. Vaccine vectơ virus đầu tiên là vaccine rVSV-ZEBOV chống lại bệnh Ebola.

                   

     6. VACCINE GENE DI TRUYỀN (genetic vaccines)

   Sử dụng những tiến bộ sinh học phân tử và miễn dịch học mới nhất để chỉnh lý phản ứng miễn dịch tế bào, thể dịch, hoặc cả hai chống lại các kháng nguyên gây bệnh. Công nghệ vaccine này sử dụng một hoặc nhiều gen mã hóa các protein mầm bệnh cần phòng ngừa.

                  

    Sau khi được tiêm vaccine gene di truyền, tế bào cơ thể sử dụng vật liệu di truyền từ vaccine để tạo ra protein đặc hiệu của mầm bệnh giúp hệ thống miễn dịch nhận diện và kích hoạt phản ứng miễn dịch cụ thể để chống lại đúng mầm bệnh này trong tương lai.

     VVACCINE ĐƯỢC PHÁT TRIỂN THẾ NÀO?

   Cũng như thuốc điều trị, phát triển một vaccine rất khó khăn, phức tạp, qua một quá trình nhiều bước, nhiều thử nghiệm: (1) Phân lập, nuôi cấy virus xác dịnh kháng nguyên; (2) Thiết kế kế hoạch cho quy trình sản xuất, bắt đầu từ một nhiễm trùng “mô phỏng” một trường hợp nhiễm bệnh thật sự; (3)Thử nghiệm tiền lâm sàng trên động vật; (4) Thử nghiệm lâm sàng trên người; (5) Phê duyệt-chấp thuận; (6) Sản xuất nhhaf máy và phân phối; và (7) Theo dõi-hậu kiểm, đánh giá.

   Do đó, phát triển vaccine có 3 hệ lụy sau:

(1) Chi phí phát triển cực kỳ cao. Trung bình, chi phí từ nghiên cứu đến phê duyệt một vaccine phải mất đến 1 tỷ USD;

(2) Thời gian phát triển khá dài. Theo y văn thế giới, với 27 loại vaccine phòng bệnh lây nhiễm hiện nay, thời gian trung bình để phát triển một vaccine là 27 ± 17,7 năm (4-68 năm), có những vaccine dù được dày công nghiên cứu, như HIV, Sốt rét, hiện vẫn chưa thể hoàn thành [9]. Dù có sự tiến bộ của công nghệ gene, di truyền, thời gian để phát triển một vaccine đã giảm xuống rất nhiều, nhưng ít nhất cũng cần khoảng một năm. Ví dụ: Năm 2002-2003 dịch SARS xảy ra, các nhà khoa học phải mất 20 tháng sau mới có vaccine  thử nghiệm trên người khi dịch bệnh đã được kiểm soát; Năm 2015 dịch Zika bùng phát, các nhà khoa học cũng mất khoảng 6 tháng để phát triển được vaccine  cho virus này; và

(3) Nhiều rủi ro. Sản phẩm thử nghiệm có thể thất bại ở một giai đoạn nào đó. Theo y văn thế giới, chỉ khoảng 22% vaccine  được phát triển thành công, nghĩa là có đến 4,5 nghiên cứu thất bại mới có 1 vaccine  khả thi [9]

    VI. ĐÔI ĐIỀU BÀN LUẬN

      1. Chủng ngừa vắc xin là chủ động phòng bệnh hiệu quả

    Với tính phòng vệ chủ động và đặc hiệu (chọn lọc) cao, chủng ngừa vắc xin là cách phòng ngừa các bệnh lây nhiễm cực kỳ chính xác và hiệu quả.

   Hiện nay, với những tiến bộ vũ bão trong y khoa, đặc biệt là về công nghệ gene (gene engineering), khá nhiều bệnh nhiễm trùng chưa hoặc không thể điều trị, gây nhiều di chứng, thậm chí gây tử vong có thể phòng ngừa hiệu quả qua việc tiêm phòng vắc xin. Danh sách các bệnh “nan y”, chữa khó nhưng phòng ngừa được nhờ vắc xin khá dài như:  bệnh dại, đậu mùa, sốt  bại liệt, viêm não Nhật Bản, viêm gan siêu vi B, sởi Đức (rubella), bệnh cúm mùa.v.v …

   Trên thế giới, Chương trình Tiêm chủng mở rộng (expanded program of immunization EPI) là một khâu quan trọng được cả WHO, UNICEF và ngành y tế của các nước trên toàn cầu đặt hàng đầu. Ngay ở Mỹ, người ta vẫn duy trì được tỉ lệ tiêm chủng cao và để tránh lây bệnh ra cộng đồng, luật pháp các tiểu bang không cho phép trẻ chưa tiêm chủng học ở các trường học. Ở Việt Nam, chính nhờ chương trình tiêm chủng mở rộng cho trẻ em, chúng ta gần như thanh toán được bại liệt, bạch hầu, ho gà, uốn ván…

  2. Vắc xin: món quà y học “vô giá”

  Nhờ phát minh thuốc chủng bệnh đậu mùa (smallpot) của Edward Jenner (1749-1822), thế giới đã “xóa sổ” bệnh đậu mùa và WHO treo giải thưởng rất lớn (nghe đâu đến 200 ngàn USD) cho ai phát hiện ca đậu mùa mới.

  Ngày 06 tháng 7 năm 1885, nhờ vắc xin ngừa bệnh dại, Pasteur đã cứu sống cậu bé Joseph Meister, bị chó dại cắn trước đó. Thành công này còn vang dội hơn vắc xin đậu mủa vì rằng cho đến nay bệnh dại là bệnh “không chữa được” (untreatable), nếu để bệnh phát bệnh chỉ còn đường chết !

  Năm 1952, Jonas Salk phát triển vắc xin ngừa bệnh bại liệt dạng tiêm bằng virus bị suy yếu, giảm độc lực được sử dụng trên toàn thế giới. Đến năm 1957, Albert Sabin lại phát triển loại vắc-xin bại liệt dạng uống đầu tiên. Bại liệt là căn bệnh rất ác hiểm, đứa trẻ mắc bệnh hoặc chết hoặc tàn phế suốt đời.      

  Danh sách các món vắc xin “quà tặng” còn quá dài. Chỉ xét riêng 12 vắc xin trong chương trình tiêm chủng mở rộng cho trẻ em EPI, cũng dễ dàng thấy lợi ích của tiêm chủng vắc xin cho trẻ em.

DT 395 VẮC XIN 3

 Ở nước ta, vào cuối thế kỷ XX, bại liệt, ho gà và viêm não Nhật Bản gần như đã vắng bóng, nhưng do lơ là tiêm chủng bệnh phát trở lại. Từ đầu năm 2017 đến hết tháng 5, toàn quốc có 119 trẻ mắc ho gà, trong đó có 2 trẻ trong đó đã tử vong. Và hiện nay, dù vắc xin ngừa dại vẫn đầy đủ ở các Trung tâm Y học dự phong CDC, thỉnh thoảng vẫn có ca tử vong do khinh suất không tiêm phòng khi bị chó cắn.

      VII. THAY LỜI KẾTt

     Vắc xin phòng bệnh đúng là món quà y học “vô giá”, một “vũ khí” phòng bệnh rất khoa học và vô cùng hiệu quả cho mọi nhà, mọi người.

     Trong khi bệnh COVID-19 đang bùng phát toàn cầu, hy vọng các nhà khoa học với những công nghệ 4.0, sẽ nhanh chóng phát triển được vắc xin đặc hiệu để ngăn chăn đại dịch quái ác này.

     VIII. TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Vaccines and immunization

h ttps://www.nps.org.au/medical-info/consumer-info/vaccines-and-immunisation

[2] Possible side effects of vaccination

http://healthywa.wa.gov.au/Articles/N_R/Possible-side-effects-of-vaccination

[3] INFORMATION SHEET – COMPARISON OF THE EFFECTS OF DISEASES AND THE SIDE EFFECTS OF NIP VACCINES

http://www.ncirs.edu.au/assets/provider_resources/handbook-tables/Inside-back-cover_Comparison-effects-of-disease-and-side-effects-of-vaccines.pdf

[4] Comparisons of the effects of diseases and the side effects of vaccines

http://ww2.health.wa.gov.au/Articles/A_E/Comparisons-of-the-effects-of-diseases-and-the-side-effects-of-vaccines

[5] Side Effects from Vaccines

http://www.immunizeforgood.com/resource-center/side-effects-from-vaccines

[6] Chống vắc xin là tự sát

http://dantri.com.vn/suc-khoe/chong-vac-xin-la-tu-sat-20170714174200846.htm

[7] Những thông tin thú vị về vắc xin

https://dantri.com.vn/suc-khoe/nhung-thong-tin-thu-vi-ve-vac-xin-20160102075842673.htm

[8] Những thông tin cơ bản về vaccine và tiêm chủng

https://tranbathoaimdphd.wordpress.com/2020/03/07/thong-tin-co-ban-ve-vac-xin-va-tiem-chung/

[9] How long does it take to research and develop a new vaccine?

https://forum.effectivealtruism.org/posts/8qMDseJTE3vCFiYec/how-long-does-it-take-to-research-and-develop-a-new-vaccine?fbclid=IwAR2TnQbJFuFzQbKrT2jnpjurKBlNDEZA-7SJi4GdwyLkFveitaIEwOySNww

          TS.BS TRẦN BÁ THOẠI   

Uỷ viên BCH Hội NỘI TIẾT VIỆT NAM