I. LỜI MỞ
Ngoài những bệnh nhân có rối loạn đông máu, người bình thường trong quá trình mổ đẻ, mổ gãy xương, một vài cục máu đông, mỡ, mô tế bào, bọt khí…cũng có thể lọt vào dòng máu và lên phổi gây ra thuyên tắc.
Nếu được điều trị kịp thời, thuyên tắc phổi được cứu sống ngoạn mục. Tiếc thay, những dấu hiệu gợi ý ban đầu của thuyên tắc phổi thường không nghèo nàn, điển hình, nên bệnh hay bị bỏ qua….
II. THUYÊN TẮC PHỔI LÀ GÌ ?
Thuyên tắc phổi không thật sự là một bệnh của hệ thống hô hấp. Chính xác hơn, nó là một biến chứng của huyết khối tĩnh mạch sâu, đi theo dòng máu và đến bít tắc các động mạch phổi khiến sự trao đổi khí không xảy ra, thường gọi nôm na là “chết đuối trên cạn”. Thuyên tắc phổi là một cấp cứu nội khoa, cần phải được chẩn đoán sớm, xử trí tích cực mới kịp thời cứu sống bệnh nhân.
Thuyên tắc phổi là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ ba trong nhóm bệnh tim mạch tại các nước phát triển. Tử vong do thuyên tắc phổi lên tới 30% nếu bệnh không được điều trị và chiếm 15% tất cả các nguyên nhân tử vong trong bệnh viện.
Chẩn đoán thuyên tắc phổi không khó, nhưng dễ bị bỏ sót vì triệu chứng nghèo nàn, ít điển hình. Thống kê cho thấy, chỉ khoảng 10% bệnh nhân thuyên tắc phổi được chẩn đoán sớm trong vòng 60 phút sau nhập viện. Những dấu hiệu gợi ý gồm: khó thở, hím tái, ho, khạc ra máu, đau ngực, ngất….Để xác định thuyên tắc phổi thường dựa vào một số các xét nghiệm không xâm lấn như chụp CT cắt lớp phổi, Chụp cộng hưởng từ MRI… Chụp động mạch phổi cản quang là tiêu chuẩn vàng để khẳng định chẩn đoán, với độ nhạy Se lên đến 90% và độ đặc hiệu Sp đến 95%.
III. NGUYÊN NHÂN VÀ YẾU TỐ NGUY CƠ
1. NGUYÊN NHÂN
Năm 1858, Rudolph Virchow mô tả thuyên tắc phổi liên quan đến tam chứng Virchow, đó là:
(1) Tình trạng tăng đông máu như trong ung thư, có thai, sau sanh, béo phì đột biến gen gây thiếu protein C, protein S hay yếu tố Leyden,
(2) Sự ứ trệ tĩnh mạch, như ở những bệnh nhân bất động kéo dài, hay du lịch ngồi lâu gây ứ trệ tĩnh mạch và
(3) Những tổn thương tĩnh mạch do chấn thương chi dưới hay vùng chậu. Càng nhiều yếu tố nguy cơ, càng tăng khả năng bị thuyên tắc phổi hay viêm tắc tĩnh mạch sâu.
Trong các phẫu thuật gãy xương hoặc chấn thương vùng chậu, đùi, gối, cẳng chân ngoài các cục máu đông, những cục mỡ, xác tế bào, khối mủ, bọt không khí…có thể lọt vào máu đi lên phổi gây thuyên tắc động mạch phổi.
2. YẾU TỐ NGUY CƠ
– Tuổi tác: cao ở người trên 70 tuổi.
– Tiền sử: Từng bị cục máu đông, có bất thường mạch máu.
– Ít vận động: Ngồi lâu khi đi xe hơi hoặc máy bay đường dài (hơn 4-6 giờ liên tục), nằm lâu – đặc biệt là sau phẫu thuật hoặc chấn thương nặng, làm tăng đáng kể nguy cơ.
– Các bệnh lý kèm: Bệnh tim, bệnh phổi, ung thư tuyến tụy, ung thư buồng trứng, ung thư phổi hoặc nhiều bệnh ung thư khác có thể làm tăng khả năng đông máu. Lupus ban đỏ hệ thống và bệnh thấp khớp cũng làm tăng đông máu.
– Hút thuốc: Hút thuốc làm hỏng niêm mạc mạch máu, khiến cục máu đông dễ hình thành hơn.
– Béo phì: nhất là phụ nữ hút thuốc hoặc bị tăng huyết áp.
– Thuốc nội tiết như thuốc tránh thai, liệu pháp thay thế hormone làm tăng các yếu tố đông máu.
– Mang thai và sinh con: Phụ nữ mang thai có nhiều nguy cơ bị cục máu đông vì tử cung lớn lên chèn ép tĩnh mạch khung chậu, làm chậm lưu lượng máu từ chân. Nguy cơ cao nhất trong khoảng 06 tuần sau sinh.
– Tiền sử gia đình và di truyền: như rối loạn đông máu làm tăng nguy cơ thuyên tắc phổi.
IV. TRIỆU CHỨNG THUYÊN TẮC PHỔI
Chẩn đoán thuyên tắc phổi không khó, nhưng dễ bị bỏ sót vì triệu chứng nghèo nàn, ít điển hình. Thống kê cho thấy, chỉ khoảng 10% bệnh nhân thuyên tắc phổi được chẩn đoán sớm trong vòng 60 phút sau nhập viện. Các triệu chứng thường gặp của thuyên tắc phổi là:
– Khó thở đột ngột.
– Đau ngực dữ dội, nặng hơn khi hít vào.
– Choáng váng, chóng mặt hoặc bất tỉnh
– Ho, có thể ho ra máu.
– Đổ nhiều mồ hôi.
– Nhịp tim nhanh.
– Môi hoặc móng tay hơi xanh.
V. XÉT NGHIỆM CHẨN ĐOÁN
– Chụp X-quang hoặc CT Scan động mạch phổi
– Siêu âm Doppler mạch máu
– Siêu âm tim
– Xét nghiệm máu tình trạng đông máu, dấu hiệu viêm, tổn thương tim và các cơ quan khác.
– Chụp MRI: trong trường hợp phụ nữ mang thai không thể chụp CT scan.
VI. ĐIỀU TRỊ THUYÊN TẮC PHỔI
Thuyên tắc phổi là một cấp cứu, điều trị đòi hỏi phối hợp: nội khoa, thủ thuật và phẫu thuật lấy huyết khối. Việc điều trị thuyên tắc phổi nhằm 3 mục đích
(1) chống khối máu đông bằng thuốc hay thủ thuật hút đông,
(2) điều trị nguyên nhân gây thuyên tắc phổi, và
(3) phòng ngừa thuyên tắc phổi tiếp theo.
Thuốc tiêu huyết khối được chỉ định đầu tay trong thuyên tắc phổi nặng. Trong một số tình huống thuốc tiêu huyết khối bị chống chỉ định, bác sĩ sử dụng ống thông để hút bỏ cục huyết khối trong lòng động mạch phổi nhằm tái tưới máu và trao đổi khí tại phổi.
VII.TÌNH HÌNH THUYÊN TẮC PHỔI
* Ở Hoa Kỳ, bệnh lý thuyên tắc tĩnh mạch, huyết khối tĩnh mạch sâu và thuyên tắc phổi, có tỷ lệ 600.000 trường hợp mỗi năm. Nhưng nhờ hệ thống y tế tốt, nên tỷ lệ điều trị thành công khá lớn. Những ca bệnh điển hình có thể kể:
(1) Năm 1974, sau khi từ chức vì Watergate, ông Richard Nixon được Tổng thống Gerald Ford ân xá vì huyết khối tĩnh mạch sâu tái phát đe dọa thuyên tắc phổi;
(2) Năm 2010, sau khi đoạt cúp Wimbledon lần thứ tư, Serena Williams bị ly thủy tinh bể cắt vào chân và phải khâu 18 mũi ở New York, sau đó cô bị thuyên tắc phổi khi trên đường bay về Los Angeles, rất may nhờ được chữa trị cấp cứu “đặc biệt” cô đã qua hiểm nghèo.
* Ở Việt Nam, theo báo cáo của TS. BS Huỳnh Nghĩa, tại hội thảo “Bệnh lý huyết khối-thuyên tắc trong thai kỳ” do Đại học Y Dược TP.HCM tổ chức, ngày 25/9/2013, tần suất thuyên tắc huyết khối khoảng 0,1% ở sản phụ dưới 35 tuổi và tăng lên 0,4% ở sản phụ trên 35 tuổi, và thời gian có nguy cơ cao nhất là những tuần sau sinh. Trong đó biến chứng thuyên tắc phổi chiếm tỷ lệ từ 13-24% và tử vong là 12-15%. Những ca thuyên tắc phổi điển hình được ghi nhân:
(1) Ngày 17/9/2013, Sở Y tế Bình Dương gửi báo cáo lên Bộ Y tế, kết luận sản phụ Vũ Thị Thúy 28 tuổi, quê Ninh Bình, tử vong sau sinh tại Bệnh viện Phụ Sản Nhi Bình Dương đêm 7-9 vì bị Thuyên tắc phổi;
(2) Ngày 19/3/2016, Hội đồng giám định y khoa Sở Y tế Đà Nẵng kết luận bệnh nhân Trần Thị Là 47 tuổi, Hòa Phong, Hòa Vang, tử vong tại bệnh viên Đà Nẵng sau khi phẫu thuật chữa trị gãy chân là do thuyên tắc mạch phổi sau phẫu thuật gãy xương;
(3) Theo báo cáo của Sở Y tế Quảng Trị gửi Bộ Y tế, ngày 17/3/2017, sản phụ N.T.T, 34 tuổi, trú tại Lao Bảo, Hướng Hóa, Quảng Trị tử vong tại Bệnh viện Quảng Trị do thuyên tắc phổi sau khi mổ bắt thai;
(4) Ngày 25/8/2017, bệnh nhân Đ.C.T, sinh năm 1987, Vị Thanh, Hậu Giang, được chuyển đến Bệnh viện Hoàn Mỹ Cửu Long điều trị vì ho, khó thở và ngất. Sau thăm khám và xét nghiệm, bác sĩ phát hiện bệnh nhân T bị thuyên tắc 2 nhánh động mạch phổi và cho điều trị thành công bằng thuốc tan sợi huyết.
VIII. ĐÔI ĐIỀU BÀN LUẬN
Ngoài những bệnh nhân có rối loạn đông máu, ở người bình thường phải qua mổ đẻ, mổ gãy xương…một vài cục máu đông, mỡ, mô tế bào, bọt khí…cũng có thể lọt vào dòng máu và lên phổi gây ra thuyên tắc phổi trong thời gian hậu phẫu.
Dù nguyên nhân gây thuyên tắc phổi là gì đi nữa, dấu hiệu gợi ý đầu tiên là ho, khó thở, tím tái, đau ngực, khạc ra máu, mệt ngất…. Do đó, các bệnh nhân hậu phẫu, đặc biệt trong các ca mổ bắt thai, mổ gãy khớp háng, gối, chi dưới…, nếu đột ngột có các dấu hiệu hô hấp này cần cảnh giác khả năng thuyên tắc phổi xảy ra.
IX. THAM KHẢO
[1] Thuyên tắc mạch phổi vì sao đáng sợ?
https://dantri.com.vn/suc-khoe/thuyen-tac-mach-phoi-vi-sao-dang-so-20160319123939134.htm
[2] Khó thở “hậu phẫu”: Coi chừng thuyên tắc phổi !
https://dantri.com.vn/suc-khoe/kho-tho-hau-phau-coi-chung-thuyen-tac-phoi-20180131100332854.htm
[3] MỔ GÃY XƯƠNG CHÂN CÓ GÂY THUYÊN TẮC PHỔI ?
https://med.duytan.edu.vn/media/63110/dt-264-phau-thuat-gay-xuong-co-gay-thuyen-tac-phoi.pdf
[4] CỤC MÁU ĐÔNG: NGUYÊN NHÂN, TÁC HẠI, ĐIỀU TRỊ, PHÒNG NGỪA
[5] Bệnh thuyên tắc phổi là gì? Nguyên nhân, triệu chứng và chẩn đoán
[6] Thuyên tắc động mạch phổi cấp từ khuyến cáo đến lâm sàng
TS.BS TRẦN BÁ THOẠI
Uỷ viên BCH Hội NỘI TIẾT VIỆT NAM