Trang chủ » Chưa phân loại » CHỈ DẤU UNG THƯ (TUMOUR MARKERS)

CHỈ DẤU UNG THƯ (TUMOUR MARKERS)

HIỂU ĐÚNG CÁC “CHỈ DẤU” UNG THƯ!

              Trần Bá Thoại  

        Để xác định chẩn đoán, mỗi căn bệnh đòi hỏi một số xét nghiệm cần thiết, trong đó xét nghiệm chủ chốt được gọi là xét nghiệm vàng hay tiêu chuẩn vàng (gold standard). Ví dụ: Định lượng glucose máu để xác định đái tháo đường, đo nồng độ axít uric máu để xác định bệnh gút, chụp phim X quang để xác định gãy xương…Với các u bướu, ung thư cũng cần những xét nghiệm tương tự, đó là những chất do khối u sản sinh ra, chuyên môn gọi là các “chỉ dấu ung thư”.

       Chỉ dấu ung thư (tumour markers) thường là các phân tử kích thước lớn -đa số là các phân tử chất đạm có gắn thêm thành phần chất đường hoặc chất béo- các chất này được tổng hợp bởi các tế bào ung thư và hiện diện trong máu hoặc trong các chất dịch cơ thể với một nồng độ tỷ lệ thuận với sự phát triển của khối ung thư.

      Một chỉ dấu lý tưởng để chẩn đoán bệnh ung bướu cần có hai đặc điểm: một là chất chỉ dấu được chế tiết vào máu với một nồng độ có thể định lượng được khi khối u chuyển sang “ác tính” và hai là việc phát hiện chất chỉ dấu này cho phép thầy thuốc định vị được khối u sinh ra nó nằm ở đâu.

      Trong thực tế không có chỉ dấu ung thư nào đạt được hai chỉ tiêu lý tưởng vì: (1) chỉ dấu phải có độ đặc hiệu đến 100% và sai số dương giả là 0% , tức là chỉ cho kết quả dương khi phát hiện khi có ung thư  và (2) chỉ dấu phải có độ nhạy đến 100% và sai số âm giả  là 0%, tức là có thể phát hiện rất sớm trong giai đoạn đầu của ung thư và không hề bỏ sót.

      Vì không có chất chỉ dấu ung thư “lý tưởng” như đã nêu trên, chúng ta cũng cần hiểu “ý nghĩa xử dụng” trong y khoa của các chỉ dấu ung thư:

   *1. Xét nghiệm định lượng chất chỉ dấu không thể dùng quá “đơn giản”, quá dễ dàng để sàng lọc và xác định chẩn đoán bệnh, bệnh nhân không thể  tự bỏ tiền đi làm xét nghiệm để biết bệnh được, mà cần phải có bác sĩ kinh nghiệm đánh giá, phối hợp độ nhạy, độ đặc hiệu cũng như các yếu tố lâm sàng khác mới có thể kết luận toàn diện và thích hợp. Ví dụ: Chúng ta không thể đơn thuần đi làm xét nghiệm AFP để kết luận có ung thư gan nguyên phát (HCC) hay không, mà cần phải có các xét nghiêm, các thăm dò chẩn đoán khác như Chức năng gan, Siêu âm bụng, chụp CT scan hoặc MRI….   

    *2.  Chất chỉ dấu ung thư rất cần thiết cho bác sĩ điều trị để đánh giá đúng tình trạng bệnh, diễn tiến và hiệu quả điều trị cũng như khả năng tái phát , ngõ hầu có phương cách xử trí thích hợp cho bệnh nhân ung thư.

     Vài chỉ dấu ung thư quan trọng hay sử dụng hiện nay:

  1. αFP (AFP, Alpha Feto Protein): là một glycoprotein; sản sinh từ túi phôi (york sac) và gan của phôi thai; dùng để theo dõi thai kỳ, ung thư gan nguyên phát và u tế bào mầm.

  2. CEA (Carcino-Embrionic Antigen): là một glycoprotein; sản sinh từ niêm mạc ruột, phôi và thai; dùng để theo dõi ung thư dạ dày, ruột non, ruột già, ung thư vú và ung thư phế quản.

  3. PSA  (Prostate Specific Antigen): là một glycoprotein; sản sinh từ các tế bào ống tuyến của tiền liệt tuyến; dùng để chẩn đoán và theo dõi ung thư tiền liệt tuyến.

  4. CA 15-3 (Cancer Antigen 15-3): là một glycoprotein; sản sinh từ tế bào ung thư vú và vài loại tế bào biểu mô; dùng để theo dõi điều trị ung thư vú.

  5. CA 125 ( Cancer Antigen 125): là một kháng thể glycoprotein; sản sinh từ ung thư buồng trứng, tế bào biểu mô bình thường của thai và biểu mô niêm mạc đường hô hấp của người lớn; dùng để theo dõi điều trị ung thư buồng trứng. 

  6. HCG (Human Chorionic Gonadotropin): là một hóc-môn glycoprotein; sản sinh từ các cộng bào nuôi của nhau thai, tế bào mầm của khối u; dùng để chẩn đoán u tế bào mầm, u tế bào nuôi, thai trứng.

 7. NSE ( Neuron Specific Enolase); là enzyme enolase; sản sinh bởi các tế bào thần kinh (neurons) các tể bào thần kinh-nội tiết, hồng huyết cầu, tiểu cầu; dùng để chẩn đoán ung thư phổi tế bào nhỏ (SCLC), ung thư nguyên bào thần kinh, u tủy thượng thận (pheochromocytoma)..